Nhìn lại lịch sử hình thành và phát triển môn Judo tại VN

Tuesday, October 30, 2012

Năm 1945 sau khi quân đội Nhật thắng Pháp tại Việt Nam, cũng như tinh thần võ sĩ đạo nhật vang danh trên thế giới, môn võ Nhật, lúc bấy giờ, là môn Nhu Đạo (Judo) và môn Nhu Thuật (Jiu-Jitsu) rất được quần chúng Việt Nam ngưỡng mộ. Những vị giáo sư người Nhật đầu tiên đến giảng dạy môn võ Nhật tại Việt Nam như: giáo sư Zonka, giáo sư Nakazono, giáo sư Watanabe, giáo sư Ishikawa, giáo sư Ishida, giáo sư Choji Suzuki, và ba giáo sư người Pháp Henri Buchet, Conginie, Tarquiny. Các giáo sư Nhu đạo người Việt Nam lần lượt hồi hương từ ngoại quốc như các vị giáo sư Hồ Cẩm Ngạc, giáo sư Phạm Lợi, giáo sư Thái Thúc Tuấn, giáo sư Đặng Thông Trị, và giáo sư thượng tọa Thích Tâm Giác. Tại quốc nội, trên bước đầu sơ sinh của môn Nhu đạo, một số giáo sư nhu đạo người Việt Nam đầu tiên được đào tạo đáng kể đến như giáo sư Phạm Đăng Cao, giáo sư Phan Văn Quan, giáo sư Vương Quang Ba, giáo sư bác sĩ Nguyễn Anh Tài, giáo sư Nguyễn Bình, giáo sư Trần Xuân Kim, và giáo sư Trần Xuân Kính. Tất cả những vị giáo sư này đều là những vị góp công đầu tiên trong việc khai sinh phong trào nhu đạo (judo) nói riêng và các môn võ Nhật nói chung tại Việt Nam.
Trong những vị giáo sư Nhu đạo người Việt Nam hồi hương từ ngoại quốc, đáng kể nhất là giáo sư Hồ Cẩm Ngạc, ông trở về nước từ đầu năm 1948, sau bảy năm du học tại Nhật Bản (từ 1941 đến 1947). Giáo sư Hồ Cẩm Ngạc sinh 1923 tại Sài Gòn tử nạn ngày 01/03/1965 tại Sài Gòn. Năm 1935, bắt đầu học võ Thiếu Lâm với vị thầy Trung Hoa (vị này là bạn của thân phụ của ông). Năm 1941, du học Nhật Bản bắt đầu học võ Không Thủ Đạo (Karate-do) với giáo sư Zenkoshan thuộc võ phái Shotokan. Năm 1943, đồng thời theo học Nhu Đạo (judo) tại trường Kodokan. Sau đó ông theo học môn kiếm đạo (Kendo) và Hiệp khí đạo (Aikido) tại trường Yosheikan. Vào thời đó, giáo sư Hồ Cẩm Ngạc là người Việt đầu tiên tốt nghiệp các bộ môn võ Nhật Judo, Karate-do, kendo và Aikido tại Nhật Bản. Đầu năm 1950, ông mở phòng dạy võ Nhu đạo tại vận động trường Phan Đình Phùng, Sài Gòn. Năm 1956, giáo sư Hồ Cẩm Ngạc đã xuất bản quyển “Nhu đạo tạp phương”.
Tại Sài Gòn, Chợ Lớn và Gia Định, giáo sư Hồ Cẩm Ngạc đã thành lập những phòng tập Nhu đạo lần lượt như sau: năm 1961 tại trung tâm sinh hoạt thanh niên (đường Đồng khánh, Chợ Lớn, khu Đại Thế Giới cũ); năm 1962, tại góc đường Duy Tân và Hồng Thập Tự (về sau là trụ sở Tổng hội Sinh viên). Năm 1962 tại khu thể thao Gia Định (cạnh Tòa Tỉnh Trưởng Gia Định), năm 1963 tai Nha Kiến Thiết Đô Thị (đường Phan Đình Phùng). Năm 1963 tại sở Thanh Niên Đô Thành (góc đường Hai Bà Trưng và Hồng Thập Tự, Sài Gòn), năm 1964 tại Chi Thanh Niên Quận 6 (bên cạnh tòa hành chánh quận 6), tháng 1/1965 tại vận động trường Cộng Hòa (đường Nguyễn Kim, Chợ Lớn).
Ngoài ra, giáo sư Hồ Cẩm Ngạc còn thành lập và gởi các huấn luyện viên dạy tại các tỉnh Phan Rang, Nha Trang, Tây Ninh, Định Tường, Vĩnh Long, Long Xuyên, Ba Xuyên. Năm 1963, giáo sư chính thức thành lập Hội Nhu Đạo Sơn Điền tại Sài Gòn. Trong suốt những năm dạy võ Nhật Bản (các môn Judo, Karatedo, kendo, và đô vật catch), giáo sư Hồ Cẩm ngạc đã đào tạo ra hàng ngàn võ sinh, và một số lớn đai đen huấn luyện viên trên toàn quốc. Một số môn đồ đai đen tâm đắc của ông đáng kể như giáo sư Lê Văn Châu, giáo sư Lê Hữu Phước, giáo sư Hồ Châu Bội, giáo sư Thịnh Đức Phú, giáo sư Âu Vĩnh Hiền (Vũ Đức), giáo sư Bùi Văn Lộc, giáo sư Lưu Kế Viễn, giáo sư Đinh Văn Ron, giáo sư Vương Đình Thanh (cảnh sát quốc gia), giáo sư Trần văn Khang (quân cảnh Vũng Tàu), giáo sư Trần Bá Biện (nha kiến thiết đô thị), giáo sư Lư Công Khang (Giang Cảnh Định Tường), giáo sư Nguyễn Văn Đào (Thủy quân lục chiến) giáo sư Mai Quang Thu (cán bộ thanh niên Long Xuyên, sau về Sài Gòn), giáo sư Thân Trọng Giáo (Biên Hòa) giáo sư Lê Văn Vinh (lực sĩ quốc gia).
Năm 1955, Việt Nam Nhu Đạo Thân Thiện Hội ra đời trong tinh thần kết hợp của các vị giáo sư và các Nhu đạo gia đầu tiên như giáo sư Hồ Cẩm ngạc, giáo sư Phan Văn Quan, Đốc Quan Cảnh, Nguyễn Phú Bửu, Lê Văn Châu... Trụ sở đặt tại số 75 Phan Đình Phùng, Sài Gòn.
Cuối năm 1955, đại diện Nhu đạo Việt Nam tham dự cuộc tranh giải Vô Địch Nhu Đạo Đông Nam Á tại Nam Vang, với phái đoàn lực sĩ Nhu Đạo Việt Nam trong đó có giáo sư Hồ Cẩm Ngạc và giáo sư Phạm Lợi (mới hồi hương được 2 ngày) được đề cử tham dự.
Cũng vào cuối năm 1955, giáo sư Phạm Lợi từ Pháp hồi hương sau mười sáu năm bôn ba hải ngoại. Giáo sư Phạm Lợi sanh ngày 17/7/1922 tại tỉnh Quảng Nam. Lúc 14 tuổi bắt đầu theo học võ Việt Nam. Đến năm 1939 ông được tuyển vào quân đội Pháp để tham dự đệ nhị thế chiến. Năm 1940, khi Hitler chiếm Âu Châu, ông bỏ Pháp sang Đức được vào học trường võ bị Đức Quốc Xã, thuộc lực lượng SS (Schutt-Staffel). Nơi đây ông bắt đầu học Nhu Đạo với giáo sư Nhật Karashi, một giáo sư huấn luyện nhu đạo của trường võ bị này. Năm 1948 ông tiếp tục học Nhu đạo với giáo sư Nhật Hirano, một môn đệ của giáo sư Karashi. Năm 1951 ông tham dự giải vô địch Nhu đạo quốc tế tại Tây Ban Nha. Năm 1952 ông tham gia vào ban huấn luyện Nhu đạo cho quân đội Thụy Sĩ. Năm 1953 ông đại diện cho liên hiệp Pháp và thắng giải vô địch Nhu đạo quốc tế tại Hòa Lan ở hạng bán trung. Đầu năm 1955 ông trở về Paris (Pháp) để dạy Nhu đạo tại Reuilly Sporting Club và Judo St. Gobain. Sau khi về Việt Nam năm 1956 ông thànhlập Lực Lượng Thanh Niên Nhu đạo và mở các lớp dạy Nhu đạo tại các trường trung học công lập Gia Long, Petrus Ký, Đại học Xá... Đồng thời ông đã xuất bản quyển Kỹ Thuật Nhu Đạo. Vì bất mãn với chính quyền Ngô Đình Diệm, ông đã liên lạc với nhóm sĩ quan thuộc tướng Nguyễn Chánh Thi tham gia cuộc cách mạng vào ngày 11/11/1960. Vào ngày 12/11/1960 đã có ba mươi bảy người thuộc lực lượng Thanh Niên Nhu đạo của ông bị hy sinh, khi tấn công vào Dinh Độc Lập. Sau khi cách mạng thất bại, ông bị bắt đầy ra Côn Đảo cùng lúc với các ông Phan Khắc Sửu, Trần Văn Hương, Phan Bá Cầm. Đến năm 1963 cách mạng thành công, ông được rước về Sài Gòn. Ông được giữ chức vụ Tổng Giám Đốc Công Dân vụ vào năm 1964. Sau một thời gian ngắn, ông xin từ chức để trở về sống một cuộc đời thanh bần của vị giáo sư Nhu đạo. Năm 1964, ông thành lập Tổng Đoàn Thanh Niên Tiền Đạo Việt Nam. Giáo sư Phạm Lợi đã đào tạo được rất nhiều môn sinh và một số đông giáo sư, huấn luyện viên đai đen Nhu đạo trên toàn quốc. Những môn đệ đai đen Nhu đạo đáng kể của ông như giáo sư Lê Văn Luyện, giáo sư Nguyễn Bình, giáo sư Chiêm huỳnh Văn, giáo sư Nguyễn Văn Tòng, giáo sư Trần Hữu Lý, giáo sư Trần Hữu Lễ, giáo sư Lê Thái bình và giáo sư Nguyễn Bá Tùng, ...
Sau cùng vào năm 1983 giáo sư Phạm Lợi đã qua đời sau những cơn bệnh trầm trọng
Năm 1958 giáo sư Thái Thúc Thuần từ Pháp hồi hương sau mười một năm du học về kỹ thuật vô tuyến điện. Giáo sư Thái Thúc Thuần sinh ngày 28/3/1925 tại Huế. Năm 1947 tại Pháp, ông bắt đầu học Nhu đạo với người Pháp Berreti,và sau đó với giáo sư Nhật Kawashi. Đến năm 1949 ông tốt nghiệp đai đen Nhu đạo với giáo sư Oda người Nhật sống tại Paris (Pháp). Rồi sau đó ông được chấm đậu thắng lên đai đen đệ nhị đẳng. Năm 1958 sau khi về nước, ông bắt đầu mở ngay một phòng tập Nhu đạo Alpha tại Sài Gòn. Mãi đến năm 1963 phòng tập Nhu đạo Alpha được di chuyển xuống đường Bùi Chu Sài Gòn. Năm 1964 ông sang Nhật Bản thi đậu lên đai đen đệ tam đẳng Nhu đạo tại trường Judo Kodokan. Năm 1964 – 1965 ông được tín nhiệm đắc cử chức chủ tịch Tổng Cục Nhu đạo Việt Nam. Trong thời gian làm chủ tịch, ông đã tích cực tranh thủ với các tổng cuộc Nhu đạo thuộc các nước ở Âu Châu để cho tổng cuộc Nhu đạo Việt Nam được chánh thức gia nhập vào tổng cuộc Nhu đạo quốc tế (Féderation International de Judo)
Thượng tọa Thích Tâm Giác, một vị giáo sư Nhu đạo từ Nhật trở về Việt Nam, trong một hoàn cảnh chính trị sôi động của đất nước vào thời chính quyền tổng thống Ngô Đình Diệm. Cho nên mãi đến năm 1964 ông mới có cơ hội bắt đầu thành lập viện Nhu đạo Quang Trung (đường Phạm Đăng Hưng, Dakao, Sài Gòn). Nơi đây đã thu hút rất mạnh một số đông đảo thanh thiếu niến, con em các gia đình phật tử theo luyện tập Nhu đạo. Thượng tọa Thích Tâm Giác đã đào tạo rất nhiều dai đen Nhu đạo Việt Nam có năng khiều vào thời đó. Ông qua đời năm 1971 tại Sài Gòn về bệnh ung thư bướu não bộ, sau một thời gian điều trị bất thành tại Nhật Bản.
Ngoài ra tại quốc nội, một số giáo sư Nhu đạo Việt Nam được đào tạo đầu tiên đáng kể nhất là giáo sư Phan Văn Quan, ngoài khả năng kỹ thuật Nhu đạo, ông còn có tài tham mưu hành chánh đã mang kinh nghiệm trong nhiều năm phục vụ trên các lãnh vực văn hóa giáo dục, thanh niên thể thao và xã hội, để tích cực góp công vào chức vụ Hội Trưởng Việt Nam Nhu đạo Thân Thiện Hội, được thành lập cùng với một số các giáo sư khác, vào năm 1955, để đánh dấu cho sự khai sinh phong trào nhu đạo Việt Nam. Mãi đến năm 1963, Tổng Cuộc Nhu đạo Việt Nam được sáng lập do các giáo sư Nhu đạo Hồ Cẩm Ngạc, Phan Văn Quan, Đặng Thông Trị, Vương Quang Ba, Thái Thúc Thuần, Trần Tá, Tăng Kim Tây, Nguyễn Anh Tài... Đến ngày 14/5/1964, Tổng Cuộc Nhu đạo Việt Nam mới được chính thức cấp giấy phép do nghị định số 162/PDUTNTT/TDTT/13ND bởi Phủ Đặc Ủy Thanh Niên và Thể Thao Sài Gòn. Giáo sư Phan Văn Quan đã góp công xây dựng cho Tổng Cuộc này đạt được một hệ thống tổ chức phát triển thanh niên Nhu đạo Việt Nam trên toàn quốc, trong ba nhiệm kỳ được tín nhiệm chức vụ Chủ Tịch Tổng Cuộc (1965 đến 1971) của ông.
Giáo sư Phan Văn Quan sinh năm 1911 tại Nam Việt Nam. Năm 1931 ông tốt nghiệp trường Quốc Gia Sư Phạm Sài Gòn và được bổ nhiệm Giáo Học rồi hiệu trưởng trường tiểu học Phong Điều, Cần Thơ cho đến năm 1941. Sau khi đậu tú tài toàn phần ông được làm giáo sư Toán và huấn luyện viên thể dục thể thao tại Trung học Cần Thơ từ 1942 đến 1954. Đến 1955 ông được thuyên chuyển về Sài Gòn giữ chức Phó Giám Đốc Trường Huấn Luyện Cán Bộ Thanh Niên Thể Dục Thể Thao và Chủ Sự Phòng Thể Dục Nha Tổng Giám Đốc Thanh Niên vào năm 1956. Sau đó, ông giữ chức Hiệu Trưởng Trường Tiểu Học Lê Văn Duyệt Sài Gòn (1957 – 1962); Thanh Tra Sở Tiểu Học Sài Gòn từ 1963 – 1971. Thuở nhỏ được thân phụ truyền dạy võ Thiếu Lâm. Từ 1936 đến 1954 tại Cần Thơ, ông theo học Nhu đạo với giáo sư Phạm Đăng Cao. Vào năm 1955 tại Sài Gòn, ông có dịp kết thân và theo học tu nghiệp Nhu đạo với giáo sư Hồ Cẩm Ngạc, và giáo sư Kazu Ishikawa.
Sau đó ông đã có nhiều dịp đi tu nghiệp Nhu đạo tại trường Kodokan Nhật Bản và học với các giáo sư người Nhật như Mifune, Matsuo Takata, và học khóa trọng tài Nhu đạo quốc tế với giáo sư Nhật Fuchi Hirose, Tổng Thư Ký Tổng Cuộc Nhu Đạo Á Châu.
Ông đã có nhiều kinh nghiệm giảng dạy Nhu đạo tại các võ đường ở Cần Thơ trước năm 1954 và tại Sài Gòn từ 1955 đến 4/1975 các võ đường như Thanh Niên Phan Đình Phùng, viện Nhu đạo Quang Trung, phòng Nhu đạo Viện Hóa Đạo, võ đường Minh Đức (Thủ Đức).
Ông còn là trọng tài Nhu đạo quốc tế và trưởng đoàn hướng dẫn lực sĩ Nhu đạo Việt Nam tham dự các cuộc tranh giải Đông Nam Á Vận Hội tại Mã Lai 1965, Thái Lan 1967, Miến Điện 1969 và đã mang lai danh dự cùng thắng lợi vẻ vang cho màu cờ sắc áo Việt Nam. Với hơn 40 năm thành tích xuất sắc trong các lãnh vực văn hóa giáo dục, thanh niên thể thao, xã hội, giáo sư Phan Văn Quan được chính quyền Việt Nam Cộng Hòa ban thưởng các huy chương cao quý như:
1. Văn Hóa Giáo Dục Bội Tinh Đệ Nhất Hạng
2. Thanh Niên Thể Thao bội Tinh Đệ Nhị Hạng
3. Xã Hội Bội Tinh Đệ Nhị Hạng
Vào năm 1993, ông được định cư tại Mỹ, đoàn tụ với người con gái út tại thành phố Westminster, Nam California. Hiện nay năm 2001, với tuổi đời 90 ông vẫn vui khỏe sống trong cảnh thanh bần của một vị cư sĩ thiền gia ẩn dật.
Hoạt động của Tổng Cuộc Nhu Đạo Việt Nam trên toàn quốc: 
I. Đại diện tổng cuộc tại 4 vùng chiến thuật: 
1. Vùng 1: giáo sư Liên Bình
2. Vùng 2: giáo sư Lê Văn Luyện
3. Vùng 3: giáo sư Phạm Công Huyền
4. Vùng 4: giáo sư Nguyễn Văn Chơi
II. đại diện tổng cuộc tại hải ngoại: 
1. tại Âu châu: giáo sư Nguyễn Tài Năng
2. tại Mỹ châu: giáo sư Lê Bá Thanh
III. Các hội, võ đường và giám đốc trong hệ thống tổng cuộc NĐVN:
1. Hội Nhu đạo Alpha: giáo sư Thái Thúc Thuần, giám đốc
2. Hội Thanh Niên Tiền Đạo: giáo sư Phạm Lợi giám đốc.
3. Hội Nhu đạo Sơn Điền: giáo sư Thinh Đức Phú giám đốc
4. VN Nhu đạo Thân Thiện Hội: giáo sư Nguyễn Văn Bình giám đốc
5. Việt Nam Hiệp Khí Nhu đạo Hội: giáo sư Đặng Thông Phong giám đốc
6. Hội Nhu đạo Tinh Võ: giáo sư Trần Tá giám đốc
7. Hội Nhu đạo Vũ Đức: giáo sư Vũ Đức giám đốc
8. Hội Nhu Đạo Lê Chi: giáo sư bùi Văn Tân giám đốc
9. Hội Nhu đạo Lam Sơn – Huế: giáo sư Liên Bình giám đốc
10. Hội Nhu Đạo  Thạnh Long – CHÚNG TA: giáo sư Ung Phụng Võ, Giám Đốc
11. Hội Nhu Đạo Phú Đình: giáo sư  Lê Văn Thơ, Giám Đốc
12. Hội Nhu Đạo Được(inh Tường: giáo sư  Nguyễn Công Minh, Giám Đốc
13. Hội Nhu Đạo Vũng Tàu: giáo sư Trần Hữu Doanh, Giám Đốc
14. Hội Nhu Đạo Cần Thơ: giáo sư Nguyễn Văn Chơi, Giám Đốc
15. Hội Nhu Đạo la San, Sài Gòn: giáo sư Nguyễn Văn Quí, Giám Đốc
16. Hội Nhu Đạo Đà Nẵng: giáo sư Trần Phi Oanh, Giám Đốc
17. Hội Nhu Đạo Bình Dương: giáo sư Lê Thành Vĩnh, Giám Đốc
18. Hội Nhu Đạo Bạch Đằng – Huế: giáo sư Phạm Văn Nho, Giám Đốc
19. Võ Đường Đông Phương: giáo sư Đặng Thông Phong, Giám Đốc
20. Võ Đường Câu lạc bộ Sài Gòn: giáo sư Herpiniere, Giám Đốc
21. Vũ Thuật Học Đường: giáo sư Nguyễn Sỹ Hào, Giám Đốc
22. Võ Đường Cảnh Sát Đô Thành: giáo sư Nguyễn Hữu Khánh, Giám Đốc
23. Viện Nhu Đạo Quang Trung: giáo sư Phan Văn Quan, Giám Đốc
24. Võ Đường Không Đoàn 23: giáo sư Trần Tấn Thành, Giám Đốc
25. Võ Đường Bảo Truyền: giáo sư Nguyễn Đình Bảo, Giám Đốc
26. Trường VT-TỰ DO Quân Đội TD: ban giáo sư hỗn hợp
27. Võ Đường Suzucho-Huế: giáo sư Phan Văn Phúc, Giám Đốc
28. Võ Đường Lôi Phong KH.Q.: giáo sư Thái Trường Xuân, Giám Đốc
29. Võ Đường Nhân Vị: giáo sư Nguyễn Văn Hồng, Giám Đốc
30. Võ Đường Biệt Khu Thủ Đô: DĐ  Thích Thiên Chánh, Giám Đốc
31. Võ Đường Sư Đoàn Nhảy Dù: DĐ Thích Thiên Hòa, Giám Đốc
32. Vũ Thuật An Giang: giáo sư Nguyễn Bá Tùng, Giám Đốc
33. Võ Đường Thiện Tâm: giáo sư Cao Đài, Giám Đốc
34. Võ Đường Duy Tân: giáo sư Phạm Văn Hảo, Giám Đốc
35. Võ Đường Nha Trang: giáo sư Nguyễn Văn Khải, Giám Đốc
36. Võ Đường Sân Cộng Hòa: giáo sư Mai Quang Thu, Giám Đốc
37. Võ Đường Tabert Lasan-Sài Gòn: giáo sư Mai Văn Rép, Giám Đốc
38. Võ Đường Nguyễn Huy Ánh: giáo sư Thái Trường Xuân, Giám Đốc
39. Võ Đường Quốc Tuấn: giáo sư Nguyễn Lục Phú, Giám Đốc
40. Võ Đường Lam Sơn-Ban M.T.: giáo sư Dương Quang Định, Giám Đốc
41. Võ Đường Thống Nhất: giáo sư Bùi Văn Lộc, Giám Đốc
42. Võ Đường Phủ Tổng Thống: giáo sư Trần Thanh Điền, Giám Đốc
43. Võ Đường BTL Cảnh Sát QG: giáo sư  Hồ Bảo Bình, Giám Đốc
44. Võ Đường Hồ Cẩm Ngạc: giáo sư Vũ Đức (Âu Vĩnh Hiền), Giám Đốc

(theo GS Vũ Đức - Đại Chúng)

Vài năm nữa sẽ tràn ngập 4K, mà 4K là cái quỷ gì vậy ta?

Wednesday, October 24, 2012

Sau CEDIA và CEATEC, ngành công nghiệp hiển thị đã thực sự bừng tỉnh cơn say và nhận ra con đường đi đúng đắn của họ trong tương lai, đó là 4K. Mặc dù trong 3 năm trở lại đây, TV 3D là niềm hy vọng, nhưng với doanh thu bết bát mà nó mang lại (vâng, doanh thu là sự sống và biểu hiện sự sống của bất kỳ ngành công nghiệp nào) thì đã đến lúc chúng ta tìm đến chân trời mới, tươi đẹp và hoan lạc hơn - một chân trời mà có đầy đủ hoa, mật ngọt và gái đẹp cho tất cả mọi người!

Ok, đó là bảng tóm tắt lịch sử của ngành công nghiệp trong giai đoạn hiện nay. Còn bây giờ, xin phép được nói về 4K. Thời gian gần đây, người yêu công nghệ hiển thị đã liên tục phải ngất ngây trước những thông tin dồn dập về 4K. Và... đau tim hơn nữa, đó là việc hiệp hội điện tử quái quỷ nào đó đã không muốn gọi 4K là 4K, họ thích một cái tên mới, kêu to hơn và bắt buộc mọi người phải tuân theo: Ultra HD hay Ultra High Definition.
Ồ, thật tuyệt vời! Ít nhất thì Sony, một trong những gã cứng đầu nhất hiện nay đã đứng lên phản bác lại ý kiến trên. Hãng TV Nhật Bản tuyên bố xanh rờn rằng họ sẽ không gọi 4K là Ultra HD hay Ultra High Definition đâu, mà 4K sẽ phải là 4K Ultra HD.
Đệt! Đến đây thì có lẽ tớ bắt đầu hết kiên nhẫn với mấy gã lắm chuyện chuyên móc túi người dùng này rồi. 4K hay Ultra HD gì đó thì mặc kệ... việc của tớ bây giờ sẽ là giải thích cái thuật ngữ quái quỷ này đây.
Ultra HD (hay 4K Ultra HD) là gì?
Về cơ bản, Ultra HD là thuật ngữ dùng để chỉ độ phân giải lớn hơn HD, giống như bột giặt Ultra Tide sẽ tốt và nhiều bọt hơn bột giặt Tide thông thường vậy. Thậm chí bạn cũng có thể dùng từ Ultra với bất kỳ thứ gì mà bạn có thể nghĩ ra, nào là Ultra Gạo, Ultra Nước mắm, Ultra Thịt chó, Ultra Cà pháo, Ultra Cà dái dê... và những thứ Ultra này tất nhiên sẽ tốt hơn những thứ không có Ultra!
Về mặt kỹ thuật, một chiếc TV Ultra HD sẽ phải có độ phân giải ít nhất là 8.000.000 điểm ảnh, với chiều ngang ít nhất là 3.840 điểm ảnh, chiều dọc ít nhất là 2.160 điểm ảnh và tỷ lệ phải là 16:9
Ngành công nghiệp có kế hoạch gì cho 4K?
Ồ, tin vui là mọi ngành công nghiệp đều có một kế hoạch nào đó cho tương lai, nhưng tin buồn là các kế hoạch đó đều muốn móc thật nhiều tiền từ túi của bạn để làm đầy túi của họ.
Vâng, kế hoạch cho tương lai là họ sẽ tạo ra rất nhiều nội dung Ultra HD. Nhưng vấn đề gai góc nhất bây giờ: làm sao để phân phát nội dung Ultra HD đến người dùng. Có ba phương án theo tớ là sẽ hoàn toàn khả thi: tạo ra một định dạng đĩa mới, thông qua download hoặc sử dụng USB (giống như bộ đĩa 4K TimeScapes vậy).
Tuy nhiên, nếu trong trường hợp thảm họa là nội dung Ultra HD quá nghèo nàn thì chúng ta có nên vô vọng hay không?
Câu trả lời là không! Bởi 4K có thể làm được những thứ mà full HD yêu quý của chúng ta không thể vươn tới.
Đầu tiên, độ phân giải siêu cao sẽ giúp cho công nghệ 3D thụ động trở nên tuyệt vời hơn. Với những người yêu mến kính phân cực giá rẻ và nhẹ (vâng, tình yêu là thứ giúp chúng ta vượt qua tất cả!) thì đây sẽ là thông tin quá tốt cho họ!
Tiếp theo, tính năng upscale full HD lên Ultra HD hiện nay hoạt động cực tốt. Nếu so sánh hai chiếc TV cớ lớn ( 65 inch trở lên): một chiếc chiếu phim full HD và một chiếc chiếu phim Ultra HD upscale thì bạn sẽ thấy sự khác biệt khá rõ rệt. Hình ảnh Ultra HD upscale thực sự mượt mà, màu sắc bão hòa tốt hơn và ít hiện tượng răng cưa hơn so với full HD.
Điều này có nghĩa là nguồn phim full HD vô tận hiện nay có thể giúp cho bạn thỏa mãn được cơn nghiền điện ảnh bất cứ lúc nào trên một chiếc TV Ultra HD.
Thực sự khi đặt một chiếc TV full HD và một chiếc TV 4K cạnh nhau thì hình ảnh mà chúng mang đến quá khác biệt, đó là một trải nghiệm không tưởng, đặc biệt là khi đứng gần, nó giống như DVD và Blu-Ray vậy!
Hiện tại, kích thước của TV và màn chiếu ngày càng trở nên lớn hơn. Nếu như một vài năm trước, TV dưới 55 inch chưa thực sự phổ biến thì hiện nay những chiếc TV 55 inch hoặc hơn là chuyện bình thường. Còn màn chiếu thì cũng bắt đầu chuyển dịch từ 90 - 100 inch lên thành 120 inch hoặc hơn.
Dự đoán, tại CES 2013 sẽ diễn ra trong hơn 2 tháng nữa, TV và máy chiếu hỗ trợ độ phân giải 4K sẽ tràn ngập. Đối với máy chiếu, mặc dù đang di chuyển chậm nhưng với việc Sony giới thiệu chiếc máy chiếu Ultra HD đầu tiên thì chắc chắn các đối thủ khác sẽ không chịu ngồi yên.
Vâng, một lần nữa xin được khẳng định: Ultra HD đang đến rất gần, và nếu bạn không có thuốc trợ tim bên cạnh thì đừng có trách khi một chiếc TV có độ phân giải siêu cao thình lình xuất hiện nhé!
TV 4K của Sony












(theo HDvietnam)

Ăn phở ở Sài Gòn

Friday, October 12, 2012

Muốn ăn uống món nào, giờ đây chỉ cần nhảy lên mạng hỏi ông Google là có thể tìm thấy cái mình muốn. Nhưng thông tin có thể bị "nhiểu" do quá nhiều luồng khác nhau và chưa chứng thực do chính bản thân của người ăn và đánh giá 1 cách khách quan.
Trước nhất, phải nói về cái món ăn sáng mà ngày nào cũng có thể ăn mà không ngán, thậm chí giờ được mấy ông mấy bà làm du lịch quảng bá là món quốc hồn, quốc túy gì đó của Việt Nam mình, đó là Phở. Món này cũng khó mà đánh giá đây, vì nó có 2 vị của 2 miền nam bắc và hợp hay không hợp khẩu vị của từng người.
Phở:
- Phở Ánh Hoa: phở này ai phải có số tuổi như ba Xuân Hi thì mới có thể biết được nha. Phở này giờ đã...dẹp tiệm. Nhưng mình muốn liệt kê ra đây để các anh chị...biết thêm những quán phở danh tiếng 1 thời của đất Sài gòn này. Phở này tọa lạc tại đường Hồ Xuân Huơng đối diện đẩu đường Nguyễn Thông, Q.3, giờ là nơi bán giày dép. Đây là quán phở mà dân mê phở không thể không biết. Đặc biệt là ở miếng thịt không tìm thấy quán nào có được, đỏ au thơm phức không nghe mùi bò. Giờ mất tích trong thế giới phở Sài gòn, tiếc thật. Với ba phở Ánh Hoa là Hoa Hậu đất Việt đó!
- Phở Truơng Minh Ký: phở này nằm ngay góc Nguyễn Thị Diệu & Bà Huyện Thanh Quan, Q.3. Phở này danh tiếng 1 thời như phở Ánh Hoa vậy đó. Quán này vẫn còn hoạt động nhưng không biết có còn chủ cũ hay không? Sáng bán phở chiều bán lẩu đuôi bò, ngon. Phở này với ba coi như đoạt á hậu 1
- Phở Tàu Thuỷtrên đường Nguyễn Thiện Thuật quân 3 giờ đây đã tuyệt tích.
- Phở Tàu Bay:  phở này có vào những năm...50. Thời mà tiếng tăm còn lừng lẫy, tô phở ở đây không rau thơm, không giá, không tương, không chanh. Điều mà người Sài Gòn thích ăn phở khi vào đây lần đầu đều bất ngờ vì vốn dĩ phở bán ở Sài Gòn luôn có húng quế, ngò gai, tương đen, tương ớt. Chưa kể, ở đây còn có tô phở đặc biệt gọi là “tô xe lửa” to nhất so với những tô phở ở các quán phở đang có ở Sài Gòn.


Lúc ấy, khách mới đến ban đầu đòi, rồi sau đó xin rau, xin tương… nhưng chủ quán kiên quyết không chiều và chỉ vào chai giấm trong vắt trên bàn. Khách cứ càm ràm vì thiếu rau, thiếu tương, thiếu đủ thứ… vậy mà lần sau những vị khách đó lại đến nữa bởi trót phải lòng cái nước dùng vàng mơ trong vắt, ngọt đậm, thoang thoảng mùi thơm phở Bắc.

Sau năm 1975, tô phở Tàu Bay chỉ giữ được khẩu vị cũ một thời gian. Sau đó bắt đầu thêm rau, giá, tương đen như bất kỳ quán phở nào khác ở Sài Gòn. Và hương vị phở Tàu Bay ở đây như nhiều khách quen nhận xét: đã dần phai nhạt. Rồi, theo sau hương vị thay đổi là cung cách phục vụ cũng thay đổi. Người phục vụ không còn niềm nở với khách như ngày nào.

Vài năm trở lại đây phở Tàu Bay có sự thay đổi. Bảng hiệu được vẽ mới quảng bá năm mở cửa tiệm là năm 1954, đồng thời bên dưới được viết thêm hàng chữ “phở Tàu Bay không chi nhánh”. Phục vụ khá tốt. Nhiều người trước mê phở Tàu Bay nay quay lại có nhận xét: mùi vị phở khá hơn, đã thấy lại hương vị cũ. Một tô phở bình thường giá 25.000đ, xem ra khá mềm và hơi nhiều so với người có sức ăn trung bình. Còn “tô xe lửa” giá 35.000đ nhưng vẫn nhiều người ăn.

Tuy nhiên, phở Tàu Bay bây giờ có chút gì đó làm một số dân nghiền phở buồn lòng, vì phở được đựng bằng tô nhựa melamine. Phở là món ăn thật nóng, khi gặp nhựa, thì hỡi ôi! Không biết chủ quán nghĩ thế nào về điều này.
Địa chỉ: 433-435 Lý Thái Tổ, Quận 10



Phở Tàu Bay với cái tô bằng melamine đây.














- Phở Hòa: quán này có trên 40 năm. Thuơng hiệu phở Hòa nổi tiếng có lẻ nhờ PR tốt nên giờ là điểm của các khách đoàn du lịch hiện nay và phát triển ở hải ngoại với thuơng hiệu của mình. Quán sạch, ngon. Đoạt á hậu 2
Địa chỉ: 260C Pasteur, P. 8, Quận 3
- Phở Dậu: quán này có trước năm 1975. Quán này đúng kiểu phở của người Bắc: không có rau giá, không có tương đen. Chủ quán chỉ mang cho bạn 1 chén hành dấm.. Bánh Phở tươi mềm. Khi ăn thì xịt tương ớt vào hành dấm trộn đều ăn chung với Phở. Ba mình nói, lúc trước, lần đầu đến ăn với mấy chú mấy bác, ăn xong ba phán luôn, hổng ngon. Mấy chú mấy bác nói, mày ăn vài lần rồi sẽ thấy nó ngon. Rồi lần hai lần ba, thậm chí lúc ông nội về chơi ba cũng đi ăn với ông nội, cũng như ba ông nội nói hổng có ngon. Vậy đó, ăn phở là phải theo gu của khẩu vị mình thôi, thấy hợp là ngon thôi.
Địa chỉ: quán không bảng hiệu nằm trong cư xá 288 gần cầu Công Lý, có người gọi là phở khu phố 4 (vì nó có cái bảng khu phố ngay đầu hẻm đó mà) hay 1 cái tên đặc biệt nữa - phở Năm Cam (lúc còn sống ông Năm hay ăn đây vào mỗi sáng). Bình thường đã đông, 2 ngày cuối tuần thì khó mà có chổ để ngồi đó nha.
Giá: 55.000 đồng (ba ăn lâu rồi nha).
- Phở Phú Vuơng: quán này giờ đông thấy sợ, đúng là có thời. Ba biết quán này lúc chưa có mình, sống với gia đình bác Như (chị của ba). Ba nói, quán này lúc trước nằm trong hẻm, bán vào buổi chiều đến 11 giờ đêm, để vài bàn cặp bên hông hẻm. Giờ thì thuê nguyên căn nhà, khách ra vào tấp nập, đông vui. Nhan sắc của nước lèo thường thường bậc trung
Địa chỉ: 339 Lê Văn Sỹ, P.1, Q.Tân Bình
- Phở Phú Gia: quán này là vị phở Bắc, quán nhỏ nhưng đông. Ấn tượng với mình ở quán này là nước tiết, nước tiết bỏ vào chén chưng cách thủy đặc sệt, ngon. Và món tái lăn, thịt bò được băm cho mềm và nhuyễn trước khi đưa vào chảo xào, mùi thơm nghi ngút. Sau đó được trút vào tô phở đã múc sẵn nước lèo nóng hổi.
Quán tuy không lớn nhưng được cái sạch sẽ và lúc nào cũng đông đúc nên thành ra đôi khi khá nóng. Phục vụ hơi chậm. Phở thịt nhiều, không rau, không tuơng đen chỉ có tuơng ớt và tỏi, nhưng lại có nhiều hành chẻ, nhìn lạ mắt .Buổi sáng đông nên ăn xong cứ tự nhiên đi ra cửa và...tính tiền.
Địa chỉ: 146E Lý Chính Thắng, P.8, Q.3.
- Phở Quyền: mình chưa ăn, ba thì nói cũng không hợp với ba, không ngon. Nhan sắc của nước lèo bình bình.
Địa chỉ: 33 Phan Đăng Lưu, quận Phú Nhuận (gần ngã 4 Phú Nhuận)
- Phở 24: sạch, đẹp, đi đâu cũng thấy. Với mình phở 24 là kẻ "lót" đường cho mình khi không ở gần tô phở mình yêu thích.
- Phở 2000: phở này huơng vị không hợp với mình. Nổi tiếng khi được tổng thống Mẽo - B.Clinton ghé ăn. Có lẻ gần khác sạn New World, nơi ông Bill tá túc nhân chuyến công du sang VN mình.
Địa chỉ: 26 Lê Thánh Tôn, Q.1
- Phở Lệ: phở này khen chê khác nhau, mình đứng về phe...chê, đơn giản nó không hợp tí nào. Ăn 2 lần rồi đi luôn.
Địa chỉ: 303-305 Võ Văn Tần, Q.3
- Phở Hùng: phở này cũng vậy, không để lại dấu ấn nào nên đi rồi cũng không buồn trở lại.
 Địa chỉ: 241-243 Nguyễn Trãi, Q.1
Vẫn còn nhiều "nàng" Phở ở đất Sài gòn để mình trao duyên, nhiểu nàng đâu đó ở vùng sâu vùng xa, đèo heo hút gió hay lọt thỏm trong xóm nhỏ đang chờ đang đợi chúng ta khám phá. Tới thời điểm này mình vẫn hay ăn quán phở bình dân với 27k/ tô, chấp nhận được với giá của nó. Khi bỏ ra số tiền gấp 2-3 lần phở bình dân thì chắc chắn rằng mình phải "ăn đúng nơi".

Xu An Hi blog

Bài đăng ở đây là những cái mình thích, mong rằng bạn cũng tìm được món mình thích ở đây.

Blogroll

About

Flag Counter